Trước hết là lao động
chữ
Lê ViỄn Phương
Giúp
người đọc tránh được những ngộ nhận cũng như loại bỏ những nghi ngờ về các giá
trị có thực của thơ hiện đại là một điều cần thiết. Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện
tượng của Nguyễn Đăng Điệp là
một trong số những công trình như thế.
Nhà
thơ đương đại dường như đang cố gây hấn với người đọc bằng những thử nghiệm của
họ và ngược lại, người đọc cũng đang đặt ra những hoài nghi đối với cái được
gọi là nghệ thuật của chính người làm thơ. Những câu hỏi mà ngày nay người đọc
thường đặt ra đối với thơ ca đương đại là: thế này cũng được gọi là nghệ thuật
ư? Rốt cuộc cái đẹp nằm ở đâu? Nếu nghệ thuật mà như thế thì bất cứ ai cũng có
thể làm được nghệ thuật? Nếu không khéo giải quyết những vướng mắc đó thì có
thể thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung sẽ trở nên lâm nguy.
Sự
chuyển đổi về hệ hình không phải là nhanh chóng. Đó là cả một quá trình dài
lâu, trong đó có sự kế thừa và sự bội ước của hệ hình mới với những khuôn mẫu,
lề thói của hệ hình cũ. Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: Những đổi
mới thực thụ trong lĩnh vực nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với sự đổi mới về
hệ hình tư duy (paradigm), về cách nhà thơ khám phá, thụ hưởng và biểu đạt thế
giới… Hệ hình tư duy
mới luôn chứa đựng trong nó những cái nhìn mới và cách suy tư khác về sự hiện
hữu. Và hơn hết, trong cái nhìn của Nguyễn Đăng Điệp thì hệ hình mới sẽ có một
hình thức tổ chức diễn ngôn mới. Đó là sự hợp thành của ngôn ngữ, cấu tứ, bút
pháp, giọng điệu với nội dung tư tưởng của người làm thơ. Thiếu sự kết hợp này
thơ sẽ tự nó đi tới những giới hạn: thơ sẽ thiếu sự khai phá về hình thức thể
hiện, không đưa ra được những kiểu thực hành thơ khác biệt so với hệ hình trước
và nếu chỉ chăm chú quá mức về hình thức thì tất yếu thơ sẽ trở nên vô cảm xúc,
thiếu giá trị biểu nghĩa thực sự.
Dựa
trên những căn bản về lý thuyết hệ hình, Nguyễn Đăng Điệp đưa ra những lý giải
về sự biến đổi của thơ ca hiện đại Việt Nam từ Thơ mới cho đến hậu hiện
đại. Theo nhà nghiên cứu này, dường như sự thay đổi của thơ ca trong tiến trình
biến đổi lịch sử của chính nó được thể hiện rõ nhất qua các phương diện: Từ mô hình
phản ánh hiện thực đến mô hình suy tư về hiện thực, từ hiện thực biết trước đến
“hiện thực của giấc mơ” nhòe mờ bất định; từ cái tôi cá nhân đến cái tôi trữ
tình công dân thời kháng chiến và cái tôi bản thể đa tầng trong thơ đương đại;
từ ngôn ngữ “trong suốt” đến ngôn ngữ “mờ đục”; từ sự đan cài giữa phong cách
cao sang và phong cách suồng sã bình dân; từ độc thoại đến đối thoại; từ xác
tín đến hoài nghi… Những thay đổi này luôn nằm trong sự va đập
về văn hóa, giáo dục, lịch sử, xã hội cùng với sự va đập trong chính nội giới
của nghệ sỹ khi họ bị quẳng ném vào thế giới và bị/được trở thành những kẻ liên
can và nhập cuộc với thế giới, họ không có khả năng và quyền hạn để vượt ra
được sự liên can này.
Qua Thơ Việt Nam
hiện đại, tiến trình & hiện tượng, chúng ta có được một cái
nhìn mang tính tổng quan về những bước đi của thơ ca hiện đại nhưng bên cạnh
đó, người đọc cũng nhìn thấy những lý giải sâu sắc và nghiêm xác về các hiện
tượng thơ, khuynh hướng thơ tiêu biểu của mỗi giai đoạn lịch sử. Việc nhìn nhận
của tác giả không theo lối cũ mòn mà luôn dựa trên những hệ thống lý thuyết mới
để nhìn nhận, khai phá những bề khuất lấp trong các hiện tượng, tránh lối viết
cảm tính thường thấy trong phê bình văn học trước đây. Ví dụ, ngày nay nếu nhìn
Thơ mới về phương diện tư tưởng, bút pháp thì có lẽ khó đưa ra được những cái
nhìn mới mẻ và mang tính phát hiện. Vì thế Nguyễn Đăng Điệp đã đứng trên lý
thuyết sinh thái học (ecology), một học thuyết nghiên cứu về
nơi sinh sống của sinh vật, và đối tượng nghiên cứu của bộ môn này là tất cả
các mối tương tác giữa cơ thể sinh vật và môi trường. Đây là một hướng đi mới
mẻ và đầy hứa hẹn cho nghiên cứu văn học ở Việt Nam . Bằng sự rọi chiếu của lý
thuyết sinh thái học, Nguyễn Đăng Điệp đã làm rõ những vấn đề mang tính phát
hiện của cá nhân tác giả trong sự truy tìm những khía cạnh mới của Thơ mới như: Tấm mạng sinh thái trong Thơ mới Việt Nam; Vạn vật
hữu linh trong Thơ mới…
Thơ
Việt Nam
hiện đại, tiến trình & hiện tượng cũng là một bức tranh phục dựng những giá trị thơ mà vì những
lý do nằm ngoài văn chương nên người ta đã nhìn không được đủ đầy và công tâm.
Một trong những giá trị ấy nay được Nguyễn Đăng Điệp nhắc tới chính là thơ của
Trần Dần, người đã vắt kiệt mình vì muốn tạo ra một thứ quả lạ trong thơ và phải
chịu nhiều cay đắng từ thứ quả “trái mùa” ấy. Nói về Trần Dần,
Nguyễn Đăng Điệp cho rằng đây là một nhà thơ có ý thức lao động thơ
trước hết là lao động chữ. Cho đến nay, ý thức về lao động thơ
trước hết là lao động chữ không nhiều ở người làm thơ nước ta.
Có vẻ người làm thơ hiện nay chưa thực sự ý thức được vai trò của ngôn ngữ
trong việc sản sinh ra hữu thể, chứa đựng hữu thể. Nhà thơ muôn đời là những kẻ
canh giữ ngôi nhà của hữu thể bằng chính ngôn ngữ của mình theo như tư tưởng
của triết gia Martin Heidegger. Ngày nay, trước sự lên ngôi của triết học ngôn
ngữ, người ta ý thức rằng ngôn ngữ không chỉ dừng lại ở chức năng là phương
tiện của nhà thơ mà chính ngôn ngữ có vai trò sản sinh ra những vật thể giả
tạo, những bản thế vì, nó chính là ngôi nhà
của sự tồn tại và là đôi cánh để khai sinh ra những kiểu dạng hiện thực khác,
hiện thực nằm ở phía bên kia của lý tính. Vì ý thức được điều này nên thơ của
Trần Dần, Lê Đạt, Bùi Giáng… thoát ra khỏi sự trơ nghĩa, nghèo nàn. Thơ của họ
là những thử nghiệm táo bạo về hình thức nhưng đồng thời cũng là những quảng
diễn về tư tưởng của thi sỹ, của những kẻ mang khát vọng kiến thiết lại ngôi
nhà của hữu thể. Sự thiếu giá trị biểu đạt, sự trống rỗng của thơ ca mang lốt
cách tân hiện nay cũng đến từ sự chưa ý thức được những điều nói trên. Có thể
sẽ có một tương lai què quặt của thi ca đương đại nếu người làm thơ ngày nay cứ
trượt trôi đi trong những kiểu bắt chước phương Tây nhưng thiếu căn nền trầm
trọng.
Thơ Việt Nam sau 1975 cũng dần trôi vào cảm
thức hoài nghi khi nhà thơ biết rằng cảm hứng sử thi chỉ là những gam màu của
quá vãng. Điều này được Nguyễn Đăng Điệp làm rõ trong tiểu luận Thơ Việt Nam
sau 1975 - Một cái nhìn toàn cảnh. Trong cái nhìn của nhà
nghiên cứu này thì thơ ca giai đoạn này có sự chuyển đổi rất lớn về tư duy nghệ
thuật. Các nhà thơ
chuyển từ “bè cao” sang “bè trầm”. Cái nhìn sử thi đã phai nhạt và thay vào đó
là cái nhìn phi sử thi… Đặc biệt, từ sau 1986 ý thức cởi trói
trong thơ được xác quyết một cách mạnh mẽ, từ đó sản sinh ra nhiều quan niệm
mới về thơ, về cả tư tưởng cũng như cách thực hành thơ. Từ đây ý thức nhìn
cuộc đời bằng cái nhìn tỉnh táo và thơ ca hiện ra như một hình thức tra vấn
không ngừng về lịch sử. Tiếp đó là nỗ lực
khám phá sự phong phú của cái tôi ẩn giấu dám phơi bày những bi kịch nhân sinh
hoài nghi những giá trị vốn đã ổn định để đi tìm những giá trị mới… Giờ
đây, nhà thơ hoan hỉ lao vào khám phá nội giới của mình, trình ra những bề
khuất lấp của cảm thức cá nhân bị đè nén bấy lâu. Và có lẽ “giải thiêng” là trò
chơi được nhiều nhà thơ tham dự. Một trong những thành tựu lớn về mặt nghệ
thuật của giai đoạn này chính là nhà thơ đã ý thức được sức mạnh của ngôn ngữ
khi họ xem thơ như một ngôn ngữ. Sự thay đổi lớn trong cách thi sỹ
nhìn về thế giới đã làm nở rộ các khuynh hướng thơ khác nhau. Trước hết đó
là xu hướng viết về chiến tranh qua những khúc ca bi tráng về số phận của
dân tộc. Tiếp
đó là xu hướng trở về với cái tôi cá nhân, những âu lo của đời sống thường
nhật. Tác giả cho
rằng đây là xu hướng nổi bật nhất của thơ ca sau 1975. Khi nhà thơ tự do đi vào
thế giới bên trong và choáng ngợp bởi sự vô tận của thế giới ấy thì họ tự nhận
thấy giới hạn của lý tính trong việc lý giải và nhận thức ngay chính bản thân
con người.
Thơ
Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện tượng thông qua các tiểu luận và những
bài viết đi vào thế giới của những sinh thể thi ca như Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên, Huy Cận, Trương Đăng Dung… và những điểm xuyết sơ qua về nhóm
Ngựa Trời… đã trực tiếp bàn về vấn đề cái mới trong sáng tạo. Trước hết, theo
tác giả thì không phải cái mới nào cũng hay nhưng chắc chắn, cái hay nào cũng mới.
Nguyễn Đăng Điệp cho rằng cái mới trong thơ trước hết nằm ở cách quan niệm
mới của nhà thơ, ở khả năng đổi mới cảm xúc và chiều sâu lý giải thế giới. Ở
đây, cái mới luôn gắn liền với cái lạ và cái khác
biệt cùng với những điều đó là sự biến thiên không ngừng của
chính những cái lạ.
Một
trong những điều đáng chú ý trong công trình này mà tác giả muốn gửi tới bạn
đọc chính là những âu lo về văn hóa đọc nói chung và văn hóa đọc thơ nói riêng.
Suy cho cùng, dù thơ có được sáng tạo theo hệ hình lý thuyết nào đi chăng nữa
thì mối quan hệ giữa người tiếp nhận và văn bản tác phẩm luôn là một vấn đề
được giới phê bình quan tâm. Dựa trên những kiến văn mang tính hàn lâm nhưng
không ngừng gây hấn như lý thuyết liên văn bản (intertextuality) của
Julia Kristeva, sự tuyên bố của Roland Barthes vềcái chết của tác giả… Nguyễn
Đăng Điệp đi vào phân tích những thay đổi trong mỹ học tiếp nhận của hiện đại
và hậu hiện đại. Mối quan hệ giữa người đọc và tác phẩm thơ hiện nay theo nhà
nghiên cứu này thì đang vấp phải những thách thức. Thậm chí trước những vấn nạn
của sự thức nhận vai trò của nghệ thuật đối với con người như ở nước ta thì sẽ
có nguy cơ dẫn tới cái chết của người đọc. Đây là một thực trạng có căn
nguyên từ nhiều hướng, trong đó sự đánh mất ý thức về vai trò của văn hóa đọc
đối với sự khai minh của xã hội ở nước ta hầu như không được xem trọng.
______________
Thơ
Việt Nam
hiện đại, tiến trình & hiện tượng của Nguyễn Đăng Điệp, NXB Văn học, 2014.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét