Di cư ngôn ngữ
ở nhà văn đương đại
INRASARA
Nhà văn sống nhờ, trong và qua ngôn ngữ
dân tộc. Ngược lại, sinh mệnh ngôn ngữ dân tộc tùy thuộc nhiều vào sự ưu tư,
chăm sóc của người sáng tác văn học. Toàn cầu hóa, nhiều sinh mệnh ấy đang bị
đe dọa, ở đó một trong những nguyên do chính yếu xuất phát từ chính nhà văn -
qua cuộc di cư ngôn ngữ của họ.
Hơn trăm năm qua, biến động chính trị quốc tế kéo theo chuyển di
lớn về dân cư, cuộc chuyển di chủ yếu từ các nước thuộc thế giới thứ ba đến các
nước phát triển, từ đó ở Âu - Mỹ nảy sinh luồng văn học di dân; từ cố quốc nó
được đặt tên là văn học hải ngoại.
Nhà văn rời bỏ quê hương cư trú đất nước khác luôn nuôi hi vọng trở
lại cố quốc khi thời cuộc thay đổi. Thường thì ở thế hệ thứ nhất, do còn vương
vấn với quê nhà hay chỉ thuần trở ngại về ngôn ngữ, nhà văn chỉ viết bằng tiếng
mẹ đẻ. Đối tượng tác phẩm họ nhắm đến luôn là nhóm độc giả văn học trong cộng
đồng di cư nhỏ bé và đồng bào còn “mắc kẹt” ở quê nhà. Nhà văn trở thành nhà
văn lưu đày, lưu đày trong ngôn ngữ và trong văn chương.
Bạn trách tôi mất thời giờ cho thơ tiếng Chăm
có bao lăm kẻ đọc? rồi sẽ còn ai nhớ? nhưng tôi muốn lãng phí cả đời mình cho nó dù chỉ còn dăm ba người dù chỉ còn một người hay ngay cả chẳng còn ai! (Inrasara, Tháp nắng, 1996) |
Thế rồi khi tình trạng lưu vong kéo dài, thời cuộc đã không chuyển
biến theo ý nguyện thì nhà văn tự mình buộc phải thay đổi. Họ bắt đầu nghĩ đến
đối tượng độc giả nơi đất nước họ đang lưu dung, và thử ngòi bút bằng ngôn ngữ
mới. Đó là điều khó khăn ít ai vượt qua được. Sang thế hệ một rưỡi, người viết
có thể thoải mái hơn trong chọn lựa ngôn ngữ thể hiện: hoặc bằng tiếng mẹ đẻ
hoặc bằng ngôn ngữ của nước sở tại (thường là tiếng Anh hay Pháp) hay cả hai.
Đến thế hệ thứ hai trở đi, đại đa số nhà văn di cư viết bằng ngôn ngữ văn học
dòng chính. Ở đây xảy ra tình trạng di cư ngôn ngữ hàng loạt.
Isabelle de Courtivron viết trong “Sống trong dịch thuật: Nhà văn
song ngữ nói về cá tính và sáng tạo” (Lives in Translation: Bilingual Writers
on Identity and Creativity): Một cộng đồng văn chương mới đã được hình thành và
thúc đẩy, bằng sự “nhập cư, công nghệ, chủ nghĩa hậu thực dân và toàn cầu hóa”,
các thế lực hùng mạnh đã “xóa bỏ ranh giới và đẩy mạnh chuyển động đa văn hóa”.
Từ đây, khái niệm văn học hải ngoại và văn học di dân biến mất. Thế
hệ văn học di dân nhường chỗ cho thế hệ mới, trẻ hơn và quyết đoán hơn.
Thử điểm danh vài tên tuổi nhà văn di cư ngôn ngữ đương đại.
Nhà văn Bosnia Aleksandar Hemon, bị mắc kẹt ở Chicago khi chiến tranh
nhấn chìm thành phố quê hương Sarajevo của ông, đã tiếp cận với tiếng Anh ở
tuổi 27. Bằng nỗ lực phi thường để vượt qua trở ngại ngôn ngữ, tác giả của Câu hỏi của Bruno và Dự án Lazarus được coi là một phù thủy đầy phong
cách, tự sáng tạo ra tiếng Anh cho chính mình. Yiyun Li đến Hoa Kỳ với vốn
tiếng Anh ít ỏi để nghiên cứu Miễn dịch học tại Đại học Iowa, nhưng chỉ sau
thời gian không dài, “tác giả cuốn tiểu thuyết thứ ba bằng tiếng Anh: Tốt hơn cả cô đơn xuất bản vào tháng 2/2014 là nhà văn
đương đại gốc Hoa được người Mỹ biết nhiều nhất, có lẽ” (William Grime, “Di cư
ngôn ngữ ở nhà văn”, The
NewYork Times, 25-4-2014).
Còn Việt Nam …
Thế kỉ XX, Việt Nam
hai lần làm di cư, lớn nhất và phức tạp nhất vẫn là từ thời điểm sau khi đất
nước thống nhất. Nhiều đợt di cư khác nhau với nhiều tâm thế khác nhau của các
bộ phận người khác nhau. Riêng văn giới, nếu nhà văn thế hệ đầu tiên như:
Nguyễn Mộng Giác, Tô Thùy Yên… chỉ viết bằng tiếng mẹ đẻ, thì thế hệ sau đó đã
khác đi rất nhiều. Họ có thể sáng tác song ngữ, như Đinh Linh, Nguyễn Quí Đức,
Đỗ Kh… hoặc hoàn toàn chuyển sang ngôn ngữ mới: Mộng Lan (tiếng Anh), Linda Lê
(tiếng Pháp)…
Có thể kể vài tác giả đương đại gốc Việt thành công qua vài giải
thưởng quốc tế uy tín.
Monique Trương sinh năm 1968 tại Sài Gòn, di cư qua Mỹ cùng gia
đình sau 1975, hiện sống tại Blooklyn - New
York . The
Book of Salt kể câu chuyện về
một đầu bếp Việt Nam sau
những năm phục dịch ở Paris , phải quyết định ở
lại (Pháp), đi (Mỹ) hay trở về Việt Nam . Tác phẩm giành Giải thưởng
“Barbara Gittings Book Award in Literature” của Hiệp hội Thư viện Hoa Kì và
Giải PEN/ Robert W. Bingham năm 2004.
We Should Never Meet là tác phẩm đầu tay của Aimee Phan, nhà
văn thuộc thế hệ thứ hai sinh ra và lớn lên ở đất nước định cư, hiện ở Orange
County - California, viết về những đứa trẻ Việt Nam được đáp máy bay qua Mỹ,
trong đó nhân vật Kim không hướng tâm người cha Mỹ-da trắng mà là người mẹ
Việt-da vàng, một chọn lựa “đầy tai ương” (chữ dùng của Nguyễn Hương). Tác phẩm
được nêu tên trong danh sách Sách nổi bật của Giải thưởng Kiriyama về tiểu
thuyết, đồng lúc vào chung khảo giải Văn chương Mỹ gốc Á năm 2005 (Asian
American Literary Awards). Aimee Phan vừa ra tác phẩm thứ hai: The Reeducation of Cherry Truong được xem là một “khám phá sâu sắc sự
giao tiếp giữa lịch sử và trái tim nhân bản”.
Nam Lê sinh ở Sài Gòn và lớn lên ở Melbourne- Úc, đã nhận Giải
thưởng Văn học Anh ngữ Dylan Thomas danh giá dành cho các cây bút trẻ năm 2008
với tập truyện ngắn gồm bảy truyện có tên The
Boat (được dịch và xuất bản ở
Việt Nam với tênCon thuyền). Lối kể chuyện của Nam Lê độc đáo đến nỗi Chủ tịch Ban giám khảo
Peter Florence nhân định: “Dưới con mắt của Ban giám khảo, Nam Lê là một
hiện tượng văn chương phi thường”.
Uyển Nicole Dương với cuốn tiểu thuyết đa văn hóa Mimi and Her Mirror do Amazon Encore xuất bản, đoạt giải
nhất trong cuộc thi Giải thưởng sách Quốc tế (International Book Awards)
2012.
Thực tế, không phải tất cả nhà văn di cư đều bị cuốn hút về phía
“trung tâm”, để chỉ sử dụng ngôn ngữ có tầm phổ quát rộng trên thế giới viết
văn, làm thơ, mà có khi ngược lại. Nếu Thuận trước hết viết bằng tiếng Việt,
sau đó tự chuyển dịch tác phẩm mình ra tiếng Pháp mà theo chị, dịch là một cách
sáng tạo lại - nhất là dịch chính tác phẩm của mình, thì không ít nhà văn Việt
Nam di cư thuộc thế hệ một rưỡi và thế hệ tiếp sau đó vẫn kiên trì sáng tác
[thành công] bằng tiếng Việt: Nguyễn Hoàng Tranh, Lưu Diệu Vân, Phan Quỳnh
Trâm… là rất điển hình. Rồi ngay cả người đã thành công trong sáng tác tiếng
Anh như Uyển Nicole Dương cũng đang có hướng quay trở lại viết bằng tiếng mẹ
đẻ, cho dù - như chị tâm sự: “Tôi ngậm ngùi cho chính mình: một số ít tác phẩm
của tôi do chính tôi viết lại bằng tiếng Việt có rất ít người đọc hay nhắc tới
trong cộng đồng Việt Nam” (Dương Như Nguyện, “Ý nghĩa của tựa truyện “Postcards
from Nam” và quan niệm về dịch thuật, diễn giải, diễn tả, và diễn đạt văn
chương”, Vietbang.com,
31-1-2014).
Thế giới phẳng, toàn cầu hóa, trào lưu hậu hiện đại giải lãnh thổ
hóa… mở ra vô vàn cánh cửa cho nhà văn hôm nay thoải mái và vô ngại trong chọn
lựa để di cư ngôn ngữ. Từ đó họ có thể cả quyết như Đinh Linh rằng: “Thật sự
thì tôi là hai nhà văn, một Mỹ, một Việt. Tôi viết bằng tiếng Việt vì tôi gắn
bó với số mệnh của nước Việt. Tôi viết bằng tiếng Anh vì tôi gắn bó với số mệnh
của nước Mỹ.” (Nguyễn Hương, “Văn chương di dân Việt tại Hoa Kỳ”, Damau.org, 24-1-2007).
Phải chăng với các nhà văn mà ngôn ngữ dân tộc không [hay chưa] ở
thế thượng phong trong thời đại toàn cầu hóa, sáng tác song ngữ truyền thống -
một truyền thống từng tồn tại trong văn học các nước Đông Nam Á suốt thời Trung Đại - đang
trở lại?
Ở phạm vi hẹp hơn, các nhà văn dân tộc
thiểu số ở Việt Nam
chẳng hạn. Việt Nam có 54 dân tộc thiểu số anh em, các cây bút người dân tộc
vẫn có thể viết bằng tiếng mẹ đẻ, thế nhưng chính tiếng Việt mới là phương tiện
họ đã thể hiện trọn vẹn nhất tài năng. Bởi đó là tiếng phổ thông, đối tượng độc
giả là các dân tộc trên đất nước Việt Nam đồng thời là chính dân tộc
mình. Ngoài dân tộc Chăm có đặc san riêng là Tagalau, để những Jaya Hamu
Tanran, Phú Đạm, Jaya Thuksiam, Kiều Dung… có thể sáng tác bằng tiếng Chăm mà
vẫn tìm được độc giả của mình, dù số lượng còn rất hạn chế, các nhà văn dân tộc
thiểu số khác, hoặc viết song ngữ, hoặc sáng tác thẳng bằng tiếng Việt.
Sáng tác song ngữ có thể kể: Nông Quốc
Chấn (dân tộc Tày), Dương Thuấn (Tày), Lò Ngân Sủn (Dáy), Inrasara (Chăm)… còn
thì đại bộ phận viết bằng tiếngViệt: Pờ Sảo Mìn (Padí), Mai Liễu, Lương Định
(Tày), Hơvê (H’rê)… Thể loại thơ là thế, chứ văn xuôi mãi đến hôm nay vẫn chưa
có nhà văn dân tộc thiểu số nào sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết bằng tiếng mẹ
đẻ. Vậy, làm sao nhà văn có thể làm nhiệm vụ canh giữ và chăm sóc ngôn ngữ dân
tộc?
(Nguồn: Tạp chí Tia sáng)
Bài này vay mượn ý tưởng của Nguyễn Hưng Quốc.
Trả lờiXóa